Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu nhà nước về đất đai,.. Cùng tìm hiểu về khái niệm quản lý nhà nước về đất đai và các nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai ở bài viết sau đây của Luận văn 1080
1. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất đai
1.1. Vai trò và tầm quan trọng của đất đai
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên nhưng lại giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của loài người. Đây là nguồn lực khan hiếm, không thể tái tạo, là điều kiện sống của con người, động vật và thực vật trên trái đất.

Vai trò của Quản lý Nhà nước về đất đai và vấn đề quy hoạch sử dụng đất đai
Đất đai tham gia vào mọi hoạt động kinh tế – xã hội, là địa điểm cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt, đồng thời cung cấp mặt bằng cho các ngành kinh tế trọng yếu như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, khai khoáng…
Không chỉ vậy, đất đai còn kết hợp với các yếu tố tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng của từng khu vực và tạo lợi thế phát triển vùng.
1.1.1. Đất đai trong các ngành sản xuất
Đất đai đóng vai trò khác nhau trong từng ngành:
- Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, vừa là đối tượng, vừa là công cụ lao động, không thể thay thế.
- Trong công nghiệp, đất đai là địa điểm bắt buộc để xây dựng nhà máy, khu sản xuất, khai thác tài nguyên.
- Với ngành vật liệu xây dựng, đất đai còn là nguồn nguyên liệu đầu vào quan trọng.
Ngoài ra, đất đai là một bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia, được giới hạn bởi ranh giới chính trị – địa lý giữa các quốc gia.
1.1.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về đất đai
Từ sự quan trọng của đất đai đối với đời sống kinh tế xã hội, ta cần phải quản lý đất đai, phải có biện pháp để sử dụng đất đai một cách có hiệu quả nhất, hợp lý nhất tránh tình trạng để lãng phí tài nguyên, tránh sử dụng bừa bãi đất đai gây nên những hậu quả khó lường: như cạn kiệt tài nguyên, sử dụng không có hiệu quả, bỏ hoang hoá đất đai,….
Luật Đất đai năm 1993 của nước ta quy định: “Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng.”
Điều này cho thấy, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người cũng như của từng quốc gia. Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và gắn liền với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của nhân loại, trở thành điều kiện chung cho mọi hoạt động lao động và sản xuất.
Không có đất đai, con người không thể tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất nào, cũng không thể tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, đất đai được xem là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là điều kiện thiết yếu cho sự sống của con người, động vật và thực vật trên trái đất.
Từ vai trò to lớn đó, mọi quốc gia đều phải xây dựng và tổ chức hệ thống quản lý đất đai một cách hợp lý, hiệu quả, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
1.2. Các yếu tố cấu thành hệ thống quản lý đất đai
Trong bất kỳ hệ thống quản lý nào, luôn tồn tại ba yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ:
- Con người
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
- Tổ chức bộ máy quản lý
1.2.1. Nhân tố con người
Trong bất kỳ hệ thống nào, nhân tố con người luôn giữ vai trò quan trọng nhất, bởi con người vừa là chủ thể sáng tạo ra các văn bản, vừa là người tổ chức và vận hành bộ máy hệ thống.
Trong lĩnh vực quản lý đất đai, đội ngũ cán bộ, công chức cần có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức để xây dựng và thực thi chính sách phù hợp với lợi ích quốc gia và nguyện vọng của nhân dân, góp phần bảo đảm phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Cơ sở pháp lý: Vai trò này được quy định rõ trong các văn bản pháp luật hiện hành:
- Luật Đất đai năm 2013 (Điều 21): yêu cầu bảo đảm tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất, trình độ chuyên môn trong quản lý đất đai.
- Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 (sửa đổi 2019, Điều 8 và 18): quy định công chức phải có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực phù hợp với vị trí việc làm, thực hiện công vụ tận tụy, khách quan, đúng pháp luật.
- Nghị định 43/2014/NĐ-CP: nhấn mạnh cán bộ quản lý đất đai phải có chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp cao.
Như vậy, con người là trung tâm của quá trình hoạch định và thực thi chính sách đất đai. Nếu người thực thi thiếu năng lực hoặc phẩm chất, thì dù chính sách đúng đắn cũng khó đạt hiệu quả trong thực tiễn.
1.2.2. Hệ thống chính sách và pháp luật
a, Mối quan hệ giữa chính sách, con người và tổ chức bộ máy
Tổ chức bộ máy của hệ thống quản lý đất đai phải được xây dựng dựa trên sự kết hợp hài hòa giữa nhân tố con người và hệ thống chính sách pháp luật.
Hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại và bổ sung cho nhau:
- Chính sách và pháp luật là định hướng và cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý;
- Con người là chủ thể trực tiếp tổ chức và thực hiện các quy định đó.
Do đó, khi thiết lập cơ cấu bộ máy, cần đảm bảo phù hợp với năng lực thực tế của đội ngũ cán bộ, đồng thời tuân thủ đầy đủ quy định pháp luật hiện hành. Việc phân công nhiệm vụ hợp lý cho từng cá nhân, từng bộ phận giúp hệ thống vận hành đồng bộ, tránh chồng chéo và nâng cao hiệu quả công việc.
Một hệ thống hoạt động nhịp nhàng chỉ đạt được khi có chính sách đúng, con người đủ năng lực và bộ máy được tổ chức khoa học, hợp lý.
Như vậy, tổ chức bộ máy chính là điều kiện tiên quyết để đưa chính sách pháp luật về đất đai vào thực tiễn một cách hiệu quả và bền vững.
b, Sự khác biệt giữa các hệ thống quản lý đất đai
Tùy thuộc vào thể chế chính trị, trình độ dân trí, điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội, mỗi quốc gia sẽ có mô hình quản lý đất đai riêng, phù hợp với đặc điểm phát triển của mình.
Dù các yếu tố cấu thành cơ bản (con người – chính sách – tổ chức bộ máy) là giống nhau, nhưng sự khác biệt về chính sách và cơ chế quản lý đã tạo nên những hệ thống quản lý đất đai khác nhau giữa các quốc gia.
c, Cơ sở pháp lý của hệ thống chính sách và pháp luật về đất đai (hiện hành)
Hiện nay, Luật Đất đai năm 2013 (được sửa đổi, bổ sung năm 2024) là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh toàn diện các hoạt động quản lý và sử dụng đất đai tại Việt Nam.
Theo Điều 22 Luật Đất đai 2013, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo các nội dung sau:
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai;
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Tổ chức bộ máy quản lý đất đai từ Trung ương đến địa phương;
- Thực hiện kiểm kê, thống kê, đo đạc, lập bản đồ địa chính;
- Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp đất đai.
Bên cạnh đó, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP (và các nghị định sửa đổi, bổ sung như Nghị định 10/2023/NĐ-CP) quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, trong đó phân định rõ trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân các cấp, và các cơ quan chuyên môn trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai.
Như vậy, hệ thống chính sách và pháp luật về đất đai ở Việt Nam hiện nay đã tạo ra một khung pháp lý tương đối đầy đủ, làm cơ sở cho hoạt động quản lý, sử dụng và khai thác đất đai hiệu quả, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và công bằng xã hội.
>> Đọc thêm: Phân tích khái niệm và kiểm soát quyền lực nhà nước
2. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
2.1. Khái niệm
Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu nhà nước về đất đai, đó là các hoạt động trong việc nắm chắc tình hình sử dụng đất đai, trong việc phân phối và phân phối lại theo quy hoạch, kế hoạch, trong việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất đai.
Đất đai là nhu cầu thiết yếu của loài người, là những yếu tố quan trọng bậc nhất cấu thành bất động sản. Trong những năm chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì những yếu tố thị trường trong đó có thị trường bất động sản đang trong quá trình hình thành và phát triển. Đó chính là các hoạt động kinh doanh, buôn bán đất đai nhà cửa đang diễn ra một cách rất sôi động.
2.2. Đất đai trong mối quan hệ với nền kinh tế thị trường
Đất đai cũng không nằm ngoài sự quản lý của nhà nước. Với nhu cầu khách quan của việc sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất – một tài nguyên có hạn và không sản xuất được – đã thúc đẩy nhà nước phải ngày càng tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu đời sống của nhân dân.
Nhưng để quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên quý hiếm này, từ năm 1993 Luật Đất đai thông qua đã đánh dấu một bước ngoặt đáng kể trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Thông qua đó nhà nước đưa ra và thừa nhận các quyền của con người về đất đai: như quyền sử dụng đất đai, quyền thừa kế, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, cầm cố, góp vốn vào liên doanh …
Nhà nước đưa ra những quy định thị trường mua bán bất động sản để bảo vệ lợi ích của các bên tham gia thị trường một cách chính đáng. Nhà nước cũng hỗ trợ các hoạt động của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường bất động sản, bằng cách tạo điều kiện thuận lợi thông qua các công cụ của mình, chính sách của mình. Đồng thời dựa vào các quy định pháp luật đất đai, Nhà nước thanh tra, xử lý các vụ tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo về các vấn đề nảy sinh trong quan hệ đất đai.
>> Tham khảo thêm: Dịch vụ nhận chỉnh sửa luận văn cho nghiên cứu sinh
3. Quy hoạch sử dụng đất đai
3.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất đai
a) Nhận thức chung về quy hoạch và đất đai
Thật vậy về mặt thuật ngữ quy hoạch là việc xác định một trật tự nhất định bằng những hoạt động như phân bố, bố trí, sắp xếp, tổ chức một đối tượng nào đó nhằm sử dụng theo như mong muốn.
Quỹ “đất đai” là một phần lãnh thổ nhất định, có vị trí hình thể, diện tích với những tính chất tự nhiên theo thời gian hoặc mới tạo thành ( đặc tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất thảm thực vật … ) tạo ra những điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác nhau.
Muốn sử dụng đất phù hợp với từng mục đích phải trải qua một quá trình nghiên cứu lao động sáng tạo, nhằm xác định ý nghĩa, mục đích của từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nhất định, đó cũng là nội dung của quy hoạch sử dụng đất đai.
b) Bản chất và tính chất của quy hoạch sử dụng đất đai
Về mặt bản chất cần được xác định dựa trên quan điểm nhận thức đất đai là đối tượng của các mối quan hệ sản xuất trong lĩnh vực sử dụng đất đai ( gọi là các mối quan hệ đất đai ) và việc tổ chức sử dụng đất (coi đất đai như là tư liệu sản xuất đặc biệt ) gắn chặt với phát triển kinh tế- xã hội.
Mọi hoạt động sản xuất sinh hoạt của con người đều gắn với một đơn vị lãnh thổ nhất định. Điều này cũng đồng nghĩa với quy hoạch sử dụng đất đai là một hiện tượng kinh tế xã hội thể hiện đồng thời ba tính chất kinh tế, kỹ thuật và pháp chế.
- Tính kinh tế: Thể hiện bằng hiệu quả sử dụng đất.
- Tính kỹ thuật: Bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật trong điều tra khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định xử lý số liệu …
- Tính pháp chế: Xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất theo quy hoạch nhằm đảm bảo sử dụng và quản lý đất đai theo đúng pháp luật.
c) Định nghĩa quy hoạch sử dụng đất đai
Từ đó có thể đưa ra định nghĩa: “ Quy hoạch sử dụng đất đai là hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của nhà nước về tổ chức sử dụng và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân bổ quỹ đất đai ( khoanh định cho các mục đích và các ngành) và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất ( các giải pháp sử dụng cụ thể ) nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường…”
Như vậy, thực chất quy hoạch sử dụng đất đai là quá trình hình thành các quyết định để đưa đất đai vào sử dụng bền vững mang lại lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: Điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt.
3.2. Các loại hình quy hoạch sử dụng đất
3.2.1. Quy hoạch sử dụng đất dai theo lãnh thổ
a) Khái niệm và đặc điểm
Quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ là loại hình quy hoạch được lập theo đơn vị hành chính các cấp. Mỗi cấp chính quyền – từ Trung ương đến địa phương – đều tiến hành quy hoạch sử dụng đất đai cho đơn vị mình.
Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ là toàn bộ diện tích tự nhiên của lãnh thổ hành chính tương ứng, bao gồm đất nông nghiệp, phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng.
b) Nguyên tắc thực hiện
Loại hình quy hoạch này được thực hiện theo nguyên tắc hệ thống và kế thừa, cụ thể:
Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ là toàn bộ diện tích tự nhiên của lãnh thổ. Loại hình này được thực hiện theo nguyên tắc: Từ trên xuống dưới, từ toàn cục đến bộ phận, từ cái chung đến cái riêng, từ vĩ mô đến vi mô và bước sau chỉnh lý bước trước.
c) Mục đích và ý nghĩa
Quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ hành chính nhằm hướng đến các mục tiêu sau:
- Cụ thể hoá một bước quy hoạch sử dụng đất đai của các ngành và đơn vị hành chính cấp cao hơn.
- Làm căn cứ để các ngành (cùng cấp) và các đơn vị hành chính cấp dưới triển khai quy hoạch sử dụng đất đai của địa phương.
- Phục vụ cho công tác thống nhất quản lý nhà nước về đất đai.
3.2.2. Quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành
a) Khái niệm và đặc điểm
Các ngành kinh tế cũng chỉ là các ngành sản xuất do con người thực hiện trên một đơn vị đất đai nào đó, luôn gắn với đất đai nên mỗi ngành không thể thiếu quy hoạch sử dụng đất đai cho ngành mình, nhằm đảm bảo cơ cấu sử dụng đất hợp lý trong mỗi ngành. Tuy nhiên khi quy hoạch phải có sự phối hợp của nhiều ngành.
b) Đối tượng và phạm vi
Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất theo ngành là diện tích đất nằm trong phạm vi ranh giới đã được xác định rõ mục đích sử dụng cho từng ngành, ở các cấp lãnh thổ tương ứng (từ Trung ương đến địa phương).
c) Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ và theo ngành
Quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ và theo ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội mang tính chiến lược, xác định mục tiêu phát triển nhiều ngành.
Các ngành chức năng căn cứ vào quy hoạch tổng thể này để xây dựng quy hoạch sử dụng đất đai cho ngành mình. Quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ và theo ngành có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau.
Cụ thể:
- Quy hoạch theo lãnh thổ đóng vai trò khung định hướng không gian sử dụng đất của quốc gia và từng địa phương;
- Quy hoạch theo ngành lại là bộ phận cấu thành, cụ thể hóa việc sử dụng đất trong phạm vi ngành nghề nhất định.
- Quy hoạch sử dụng đất đai có nhiệm vụ xác định cơ cấu sử dụng đất đai và vị trí những khoanh đất dùng cho các mục đích khác nhau và là một trong những yếu tố chủ yếu xác định bố cục không gian của khu vực đô thị.
3.3. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất đai
Quy hoạch sử dụng đất đai là công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước về đất đai, giúp tổ chức không gian phát triển kinh tế – xã hội và định hướng sử dụng đất hiệu quả, bền vững. Các đặc điểm nổi bật gồm:
3.3.1. Tính lịch sử – xã hội
Mỗi giai đoạn phát triển của xã hội đều gắn với phương thức sản xuất và quan hệ sử dụng đất khác nhau. Quy hoạch sử dụng đất đai phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người trong sản xuất.
Ở Việt Nam, với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, quy hoạch được xây dựng nhằm bảo đảm lợi ích chung và phát triển bền vững, đồng thời giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
3.3.2. Tính tổng hợp
Quy hoạch sử dụng đất đai là quá trình tổng hợp nhiều yếu tố: tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường. Hoạt động này đòi hỏi sự phối hợp liên ngành để phân bổ, sử dụng đất hợp lý, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Nhờ tính tổng hợp, quy hoạch giúp điều hòa mâu thuẫn trong khai thác đất đai, bảo đảm sự cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường sinh thái.
3.3.3. Tính chiến lược và định hướng dài hạn
Quy hoạch đất đai thường được lập cho chu kỳ 10 năm, có tầm nhìn 15–20 năm, nhằm dự báo xu hướng phát triển và phân bố đất đai hợp lý theo vùng, ngành và mục tiêu quốc gia.
Hoạt động này gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng và các kế hoạch khai thác tài nguyên như rừng, nước, khoáng sản. Nhờ đó, quy hoạch đất đai có tính định hướng dài hạn và khả năng điều chỉnh linh hoạt theo thực tiễn.
3.3.4. Tính chính sách
Quy hoạch sử dụng đất đai là công cụ triển khai chính sách đất đai của Nhà nước. Khi lập quy hoạch, các cơ quan chức năng phải tuân thủ đường lối, chủ trương của Đảng và quy định pháp luật, đặc biệt là Luật Đất đai 2013 (sửa đổi 2024).
Theo Điều 36 Luật Đất đai, quy hoạch phải tuân thủ chỉ tiêu khống chế quốc gia về:
- Quy mô dân số, tốc độ đô thị hóa;
- Cơ cấu đất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ;
- Bảo vệ đất rừng, đất trồng lúa và môi trường sinh thái.
Tính chính sách thể hiện vai trò thống nhất, đồng bộ trong quản lý và quy hoạch sử dụng đất đai, góp phần bảo đảm phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo vệ môi trường.
3.3.5. Tính khả thi
Quy hoạch sử dụng đất đai là một quá trình động, được cập nhật và điều chỉnh theo điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của từng giai đoạn. Một phương án quy hoạch chỉ khả thi khi phù hợp với pháp luật, nguồn lực và có sự đồng thuận của người dân.
Tính khả thi phản ánh chất lượng của quy hoạch, bảo đảm việc sử dụng đất hiệu quả, phù hợp thực tế và hướng tới phát triển bền vững.
Quản lý nhà nước về đất đai đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo nguồn tài nguyên đất được sử dụng hiệu quả, công bằng và bền vững. Trong bối cảnh phát triển kinh tế – xã hội hiện nay, đất đai không chỉ là tư liệu sản xuất đặc biệt mà còn là nền tảng cho quá trình quy hoạch, đầu tư và phát triển đô thị, nông thôn. Chỉ khi quy hoạch được xây dựng khoa học, minh bạch và có tính khả thi cao, nguồn tài nguyên đất đai mới thật sự trở thành động lực phát triển bền vững của đất nước.