Tác động của toàn cầu hoá hiện nay đang là một xu hướng tất yếu và ngày càng được mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Tính tất yếu của quá trình này trước hết thể hiện ở khía cạnh kinh tế, nơi mà sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc. Toàn cầu hoá kinh tế chính là mặt quan trọng nhất của toàn cầu hoá, bởi nó không chỉ thúc đẩy giao thương, đầu tư và phát triển mà còn tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực chính trị, xã hội và đời sống kinh tế thế giới.
Vậy toàn cầu hoá là gì, kinh tế quốc tế là gì, tại sao cần phải toàn cầu hoá và hệ quả của toàn cầu hoá ra sao? Hãy cùng Luận văn 1080 tìm hiểu chi tiết về tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trong bài viết dưới đây.

Tác Động Của Toàn Cầu Hóa Và Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
1. Khái niệm về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
1.1. Khái niệm về toàn cầu hoá
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 và đầu thập kỷ 90 đã làm biến đổi trật tự hệ thống thế giới. Cũng trong thời điểm chuyển đổi ấy, khái niệm “toàn cầu hoá” bắt đầu hình thành và được sử dụng một cách phổ biến. Những quan hệ, liên kết vượt lên trên quốc gia, đôi khi được gọi là “siêu quốc gia”, ấy được xem như quá trình quốc tế hoá.
Đa số các mối quan hệ này bắt nguồn từ cơ sở kinh tế, nhưng cũng có những quan hệ được dựng lên bởi tham vọng hay lý tưởng chính trị không xuất phát từ cơ sở kinh tế – xã hội hiện thực. Các quốc gia dân tộc đã thực sự trưởng thành, đủ điều kiện để tham dự một cách có ý thức vào quá trình mới – quá trình hình thành hệ thống thế giới. Đây chính là giai đoạn mở đường cho sự ra đời của một hệ thống toàn cầu. Về mặt khái niệm, đó là lúc “quốc tế hoá” được thay thế bằng “toàn cầu hoá”.
Toàn cầu hoá là quá trình hình thành một chính thể thống nhất toàn thế giới. Đó là sự ảnh hưởng, tác động và xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế, vận hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu.
1.1.1. Quan điểm của Roland Robertson về toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá có thể được xem như một quá trình lịch sử tự nhiên. Roland Robertson là người đi đầu trong quan niệm này. Ông gọi toàn cầu hoá là quá trình hội tụ thế giới trên phạm vi rộng, khác biệt với những quá trình nhỏ hơn diễn ra trong phạm vi quốc gia hay địa phương.
Theo Robertson, lịch sử thế giới vận động theo một tiến trình hợp nhất, hình thành nên những thực thể xã hội ngày càng lớn – mà đỉnh cao là thực thể toàn cầu. Ngay trong quá trình hình thành các thực thể trung gian ấy đã hàm chứa yếu tố toàn cầu hoá dưới dạng manh nha. Ông cho rằng tiến trình toàn cầu hoá bắt đầu ở châu Âu đầu thế kỷ XV và được mở rộng ra ngoài châu Âu từ giữa thế kỷ XVIII.
Robertson phân quá trình này thành hai giai đoạn:
- Từ 1750 đến 1870: giai đoạn “toàn cầu hoá phôi thai”.
- Từ 1870 đến những năm 1920: giai đoạn thiết yếu của sự “cất cánh” đưa đến sự thiết lập một xã hội toàn cầu.
Hai giai đoạn này được xác định với một hỗn hợp của những sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá và công nghệ. Từ cách tiếp cận xã hội học tôn giáo, Robertson vẫn có được một cái nhìn khá biện chứng về quá trình toàn cầu hoá. Ông không coi nó là quá trình đồng nhất toàn cầu, mà là sự thâm nhập lẫn nhau giữa cái toàn cầu (the global) và cái địa phương (the local).
Trong kinh doanh, nó thể hiện bằng sự hợp tác toàn cầu đáp ứng nhu cầu sản phẩm và thị trường của địa phương theo từng hoàn cảnh cụ thể, tương thích với sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Từ đó, Robertson đưa ra khái niệm “glocalization” hay “local globalization” (toàn cầu hoá có tính địa phương.
1.1.2. Bản chất và tính tất yếu của toàn cầu hoá kinh tế
Tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn và nhiều hơn hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Đó chính là phương thức để giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển của sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung cầu đối với những yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ, quản lý, nhân công và hàng hoá nhằm tối ưu hoá việc phân bố và sử dụng những yếu tố này trên phạm vi toàn cầu.
Như vậy, toàn cầu hoá là một quá trình khách quan của xã hội loài người, cả thế giới chỉ có một quá trình toàn cầu hoá duy nhất đang trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi nước – đặt biệt là các nước đang phát triển – không thể có sự lựa chọn: tẩy chay toàn cầu hoá này hay chỉ tham gia vào toàn cầu hoá kia, hoặc chờ đợi làn sóng toàn cầu hoá mới nào đó có lợi cho mình. Việt Nam cũng không là trường hợp ngoại lệ.
Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Anan đã nói:
“Những người thua cuộc thực sự trong một thế giới còn rất nhiều bất bình đẳng ngày nay không phải là những người đã phải đối mặt quá nhiều với toàn cầu hoá mà là những người bị gạt ra lề của quá trình ấy”.
Thủ tướng Phan Văn Khải cũng không chỉ rõ:
“Chúng ta cần cùng nhau tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hoá các mặt tích cực và tối thiểu hoá các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt là ngăn chặn sự phát triển của đói nghèo tại các nước đang phát triển vì các nước này tham gia vào quá trình toàn cầu hoá là nhằm đạt được một sự phát triển ổn định và bền vững”.
>> Đọc thêm: Dịch vụ thương mại là gì? Một số dịch vụ thương mại theo quy định của Luật thương mại
1.2. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế

Khái niệm về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Nguồn gốc và sự hình thành khái niệm
Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu.
1.2.2. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là gì, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ cách đây hai ngàn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi.
1.2.3. Các cấp độ hội nhập kinh tế
Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế học quốc tế, hội nhập kinh tế thường được cho là có sáu cấp độ cơ bản, bao gồm:
- Khu vực hoặc hiệp định thương mại ưu đãi (Preferential Trade Area)
- Khu vực hoặc hiệp định thương mại tự do (Free Trade Area)
- Liên minh thuế quan (Customs Union)
- Thị trường chung (Common Market)
- Liên minh kinh tế – tiền tệ (Economic and Monetary Union)
- Hội nhập toàn diện (Complete Integration)
Tuy nhiên trong thực tế, các cấp độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn.
Hội nhập kinh tế có thể là song phương – tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu vực – tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương – tức là có quy mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới đang hướng tới.
1.2.4. Tính tất yếu và vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập.
Hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.
>> Tham khảo thêm: Dịch vụ thuê người làm luận văn chuẩn yêu cầu trường học
2. Nhận thức về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
2.1. Nhận thức về toàn cầu hóa
2.1.1. Bản chất của quá trình toàn cầu hoá
Toàn cầu hóa làm cho các nền kinh tế quốc gia hoà nhập vào và được cấu trúc lại trên quy mô quốc tế thông qua một loạt quy trình, giao lưu, trao đổi. Như vậy, toàn cầu hoá không chỉ là sự phụ thuộc lẫn nhau, dù là phụ thuộc toàn diện giữa các nền kinh tế mà là sự hoà nhập các nền kinh tế này để xu thế hình thành nên một nền kinh tế toàn cầu thống nhất.
2.1.2. Toàn cầu hoá – xu thế tất yếu của quan hệ kinh tế hiện đại
Ngày nay toàn cầu hoá mà trước hết và về thực chất là toàn cầu hoá kinh tế đang trở thành một xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế hiện đại. Hiện nay tuy có rất nhiều những quan niệm không giống nhau về toàn cầu hoá kinh tế nhưng có thể thấy nét chung nhất là thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động kinh tế hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các nước trên thế giới vượt qua khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ thuật mạnh mẽ và sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất càng ngày càng tăng.
2.1.3. Đặc điểm và xu hướng vận động của toàn cầu hoá kinh tế
Toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất, sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và qui mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu.
2.4. Tác động của quốc tế hoá và cách mạng khoa học – kỹ thuật
Toàn cầu hoá kinh tế là dưới sự tác động của quốc tế hoá sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính dựa dẫm vào nhau, bổ sung cho nhau của nền kinh tế các nước ngày càng gia tăng, yếu tố cản trở sản xuất đang ngày càng mất đi bởi sự tự do lưu thông toàn cầu. Mặc dù vậy, toàn cầu hoá kinh tế vẫn ở trong giai đoạn đầu của nó. Lĩnh vực then chốt hợp tác toàn cầu hoá kinh tế vẫn chỉ là mậu dịch, tự do lưu thông nguồn vốn và sức lao động còn là vấn đề trong tương lai.
2.2. Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.1. Nhận thức chung về hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay
Nhận thức chung về hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay, người ta đều thấy rằng, nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là một vấn đề thời sự. Các quốc gia đều khẳng định cần xây dựng nhận thức thống nhất trong nội bộ rằng hội nhập là cần thiết, phù hợp với xu thế chung, nhất là việc nước ta đã tham gia WTO sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của đất nước:
2.2.2. Bản chất và tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy hội nhập kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế mỗi nước. Khi đã tham gia WTO, phải tranh thủ các cơ hội kinh doanh, để có tiếng nói trong quá trình hình thành luật lệ kinh tế, thương mại quốc tế có lợi cho mình.
2.2.3. Thách thức và yêu cầu nhận thức trong tiến trình hội nhập
Không thể né tránh việc hội nhập kinh tế quốc tế mà vấn đề then chốt là cần phải nhận thức trước, tính toán đầy đủ cái giá phải trả cho việc tổ chức và vận hành các hiệp định quốc tế, phải đề ra được những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức thấp nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội để phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong thị trường nội địa. Để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, phải ra sức tăng cường nội lực, cải cách và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế trong nước để phù với “luật chơi chung” của quốc tế.
2.2.4. Mối quan hệ giữa cải cách trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế
Điều này không có nghĩa là các nước bị ép phải cải cách, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế nhưng thực ra cải cách, hội nhập kinh tế quốc tế là vì sự phát triển của mình. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế phải dựa và gắn chặt với chiến lược phát triển của đất nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cải cách trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế là “Con đường hai chiều”.
Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời hội nhập kinh tế quốc tế sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần phải nhận thức rằng dù có hội nhập kinh tế quốc tế hay không thì vẫn tiếp tục cải cách, cải cách mạnh hơn, nhanh hơn vì sự phát triển của mình.
2.2.5. Vai trò và tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
2.2.6. Hội nhập và bảo đảm ổn định chính trị – xã hội
Hiện nay, tình hình trong nước, khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi, đang diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế-xã hội, khả năng bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị-xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
2.2.7. Hội nhập – mở rộng cơ hội và hoàn thiện môi trường pháp lý
Hội nhập kinh tế quốc tế không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng đặc biệt. Hội nhập kinh tế quốc tế là mở rộng các cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường, có môi trường pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập kinh tế quốc tế, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính tị hay những lý do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư.
2.2.8. Tăng cường nhận thức và tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế
Từ ổn định về thị trường, các nước sẽ có điều kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập kinh tế quốc tế, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Ngoài ra, các nước có thể sử dụng những luật lệ, quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội nhập kinh tế quốc tế để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Cần tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, nhằm giải thích cho các tổ chức, cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp, người dân… về hội nhập kinh tế quốc tế để chúng ta có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Bộ Công Thương đã xây dựng “Đề án tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế”, với mục tiêu triển khai sâu rộng, với sự tham gia phối hợp của tất cả các bộ, ngành và các cơ quan liên quan, nhằm tạo sự lan toả trong xã hội; quán triệt những nhiệm vụ của giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới, quán triệt quan điểm về tuyên truyền trong giai đoạn mới, với nhiều nội dung mới.
3. Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
3.1. Thời cơ
Toàn cầu hóa mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập:
3.1.1. Phát huy lợi thế so sánh và tham gia phân công lao động quốc tế
Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế từ đó phát huy cao độ nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia.
3.1.2. Thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư
Tự do hóa luân chuyển hàng hóa dịch vụ và vốn với việc hạ thấp hàng rào thuế quan, đơn giản hóa trong khâu thủ tục , cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, đầu tư, tăng lượng , giảm thất nghiệp, và tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng.
3.1.3. Mở rộng cơ hội đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều kiện để đa dạng hóa các loại hình đầu tư nhờ đó vừa nâng cao hiệu quả vừa hạn chế rủi ro đầu tư.
3.1.4. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ và tri thức quản lý
Toàn cầu hóa thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ,chuyển giao vốn kỹ năng quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước phát triển đồng thời giúp các nước tiếp nhận đầu tư có cơ hội phát triển.
3.2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội to lớn mà toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức phức tạp và sâu rộng trên nhiều phương diện.
3.2.1. Sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế
Thách thức đầu tiên là sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế. Thực vậy, có sự khác biệt cơ bản giữa tư bản công nghiệp và tài chính, hay nói cách khác là khác biệt giữa đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư tài chính (portfolio investment).
Các nhà đầu tư trực tiếp đã bỏ tiền đầu tư xây dựng nhà xưởng thì không dễ gì một sớm một chiều có thể rút lại vốn đầu tư. Trong khi đó, các nhà đầu tư tài chính có lợi thế linh hoạt hơn nhờ tính chuyển nhượng cao của chứng khoán.
Mặt khác nguồn tài chính được phân bổ không đồng đều, tập chung vào một số trung tâm tài chính lớn là các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa càng làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn dễ dàng hơn và tất nhiên rủi ro sẽ lớn hơn.
3.2.2. Nguy cơ tụt hậu và phụ thuộc kinh tế
Nguy cơ tiếp theo là tụt hậu của một số quốc gia. Một số quốc gia tranh thủ được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường tài chính quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng, mở rộng thương mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển,
thì một số nước khác lại không có khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thương mại, thu hút vốn đầu tư và kết cục tất yếu là sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau, chính sách tiền tệ – tài chính của các nước yếu bị phụ thuộc vào chính sách của các nước mạnh.
3.2.3. Nguy cơ hình thành thế độc quyền và tập trung quyền lực kinh tế
Mối đe dọa của quá trình toàn cầu hóa đó chính là xu hướng hình thành thế độc quyền, tập chung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế. Xu hướng sáp nhập đang diễn ra mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới cận đại. Vậy thế thì đâu là điểm dừng của xu thế sát nhập này? Bởi lẽ nếu xu thế sát nhập tiếp tục gia tăng chắc chắn sẽ tác động xấu đến thị trường cạnh tranh hoàn hảo – nhân tố đã góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế trong suốt hàng thế kỷ qua.
3.2.4. Áp lực cạnh tranh và nguy cơ “bóp nghẹt” sản xuất trong nước
Quá trình toàn cầu phát triển phải giảm dần thuế và bỏ hàng rào phi quan thuế, nghĩa là bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hóa nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào, bóp chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
3.2.5. Sự tổn thương của các nền kinh tế yếu kém
Quá trình toàn cầu hóa phát triển làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của các quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá trình này mà còn phải chịu những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu…
Các nước càng yếu kém, các chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp với các định chế quốc tế, tệ nạn tham nhũng quan liêu càng nặng, hệ thống ngân hàng – tài chính càng lạc hậu thì càng chịu tác động nặng nề hơn.
3.2.6. Nguy cơ lan truyền tội phạm xuyên quốc gia và các thế lực phản động
Quá trình toàn cầu hóa phát triển, không chỉ có các lực lượng kinh tế tiến bộ tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phản động, bọn maphia, các tổ chức khủng bố… Mạng lưới toàn cầu của maphia hiện đang lan khắp toàn cầu, các đường dây buôn lậu ma túy đã len lỏi đến cả các trường học.
Các thế lực phản động cũng không bỏ lỡ thời cơ xâm nhập vào nước ta phá hoại chính sách đúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoại. Nhưng không thể vì nó mà đóng cửa đất nước hay hạn chế sự hội nhập cả đất nước vào quá trình toàn cầu hóa.
3.2.7. Bất bình đẳng trong phân phối lợi ích và gia tăng khoảng cách giàu nghèo
Toàn cầu hóa đã phân phối không cân bằng các cơ hội và lợi ích giữa các khu vực, giữa các quốc gia và trong từng nhóm dân cư. Do đó TCH làm gia tăng thêm tình trạng bất công, phân hoá giàu nghèo.
3.2.8. Tác động xã hội và văn hóa trong quá trình hội nhập
Với việc hội nhập kỹ thuật, công nghệ hiện đại được du nhập tạo ra khả năng, nâng cao năng suất lao động, đồng thời các dòng hàng hoá dịch vụ của các nước phát triển có lợi thế sẽ lấn át sản phẩm của các quốc gia kém phát triển. Từ đó nảy sinh cạnh tranh gay gắt, nảy sinh thất nghiệp, phá sản, làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội. Toàn cầu hóa đem đến tăng trưởng kinh tế nhưng lại kèm theo hậu quả về môi trường xã hội (mất đi bản sắc dân tộc đối với các lớp trẻ sinh ngoại Vd: một số trẻ em hiện nay sống ở nước ngoài không biết nói tiếng Việt, không biết về quê cha đất tổ, cội nguồn ông, bà mình ở đâu?; Âu hoá, Mỹ hoá trên chính quê hương mình. Ví dụ: Xem đồng tiền là trên hết, ăn mặc không hợp với mọi người xung quanh, ít quan tâm và giúp đỡ đến hàng xóm xung quanh, mặc dù mình có khả năng giúp…)
Những biểu hiện ấy cho thấy tác động hai mặt của toàn cầu hóa – vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa gây ra biến đổi xã hội và thách thức văn hóa cần được nhận thức và điều chỉnh kịp thời.
4. Kết luận
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu của thời đại, phản ánh quy luật phát triển khách quan của lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế toàn cầu. Đối với Việt Nam, tiến trình này đã mang lại nhiều thời cơ to lớn trong việc mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư, tiếp nhận công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và khẳng định vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Tuy nhiên, song hành với cơ hội là những thách thức không nhỏ về kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh.
Vì vậy, để tận dụng hiệu quả lợi ích của toàn cầu hoá, Việt Nam cần chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong hội nhập; phát huy nội lực, đổi mới thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc và giữ vững độc lập, tự chủ quốc gia.
Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể hội nhập thành công, biến toàn cầu hoá thành động lực phát triển bền vững, góp phần xây dựng một nền kinh tế hiện đại, năng động và hội nhập sâu rộng với thế giới.